Nhà thờ Huyện Sỹ
Số lượng xem: 3601
Số 1 đường Tôn Thất Tùng, phường Phạm Ngũ Lão, Q.1, TP. Hồ Chí Minh

Nhà thờ Huyện Sỹ là một Nhà thờ Công giáo cổ hơn 100 tuổi, tọa lạc tại số 1 đường Tôn Thất Tùng, Q.1, Thành phố Hồ Chí Minh.

 

 

Nhà thờ do ông bà Lê Phát Ðạt, tức Huyện Sỹ, hiến đất và 1/7 gia tài để xây dựng, thời giá lúc bấy giờ là khoảng trên 30 muôn (ngàn) bạc. Khởi công xây dựng năm 1902 theo thiết kế của Linh mục Bouttier, đến 1905 thì được khánh thành, Nhà thờ tọa lạc trên một khu đất cao và rộng hơn một mẫu, nằm ở góc đường Frère Louis (nay là đường Nguyễn Trãi) và Frère Guilleraut (nay là đường Tôn Thất Tùng).

 

 

Ban đầu nhà thờ có tên là Nhà thờ Chợ Đũi do thuộc họ đạo Chợ Đũi, do nhận bảo trợ của thánh Philipphê tông đồ, thánh bổn mạng của Huyện Sỹ nên còn được gọi là Nhà thờ thánh Philipphê. Tuy vậy, dân gian vẫn gọi là Nhà thờ Huyện Sỹ, và sau đó dần trở thành tên chính thức của Nhà thờ này.

Nhà thờ Huyện Sĩ được đánh giá là có khuôn viên rộng rãi khoáng đãng nhất ở Sài Gòn. Phía trước Nhà thờ có tượng đài thánh tử đạo Việt Nam là Matthêu Lê Văn Gẫm. Gần cổng chính còn có đài Thiên Thần bổn mạng và tượng đài thánh Giuse.

 

 

Bên trái khuôn viên là núi Đức Mẹ Lộ Đức được xây dựng năm 1960 để kính Đức Mẹ Lộ Đức. Hằng năm cứ vào ngày 11 tháng 2 dương lịch, các cha sở họ Chợ Đũi có thói quen dâng Thánh lễ tại núi này cầu nguyện đặc biệt cho các bệnh nhân.

Phía bên phải khuôn viên Nhà thờ là đồi Canvê, có tượng chuộc tội rất lớn được xây dựng năm 1974 dưới thời linh mục Gioan Baotixita (Iohannes Baptista) Dương Hoàng Thanh.

Nhà thờ có chiều dài 40m, chia làm 4 gian rộng 18m. Nhà thờ dùng đá granite Biên Hòa để ốp mặt tiền và các cột chính điện, theo phong cách kiến trúc Gothic mới.

 

 

Chính điện Nhà thờ có vòm chịu lực dạng cung nhọn. Tường có nhiều cửa sổ dạng vòm đỉnh nhọn và được trang trí bằng lớp kính màu ghép hình mua từ Ý. Bên trong các gian tường có nhiều tượng Thánh. Trên vòm cửa chính có tượng Thánh Philipphê bổn mạng Nhà thờ bằng đá cẩm thạch, đứng cầm cây Thánh giá Phục sinh.

Ngọn tháp chuông chính diện cao 57m kể cả chiều cao Thánh giá và con gà trống Gaulois. Bên trong ngọn tháp có 4 quả chuông được đặt đúc tại Pháp năm 1905. Hai quả lớn có đường kính 1m05 do con trai và con dâu Huyện Sỹ là ông Gioan Baotixita Lê Phát Thanh và bà Anna Đỗ Thị Thao tặng. Hai quả chuông nhỏ đường kính 0m95 không ghi người tặng, có lẽ là của ông bà Huyện Sỹ đặt đúc cùng năm.

Theo học giả Vương Hồng Sển, ông Huyện Sĩ, cũng có tên gọi là Lê Phát Đạt (1841-1900), người Cầu Kho, theo đạo Công giáo, tên thánh là Philipphê, thuở nhỏ tên là Sĩ, khi học La Tinh ở Cù lao Penăng gặp thày dạy trùng tên nên đặt tên là Đạt. Thời đó rất hiếm người biết chữ nghĩa (chữ quốc ngữ, chữ Hán) và nhất là tiếng La Tinh và tiếng Pháp, nên hầu hết những người được đào tạo từ trường dòng ra, đều được trọng dụng, trong đó có ông ông Lê Phát Đạt được cử làm thông phán. Ông phục vụ ở tỉnh Tân An nhiều năm.

 

 

Tương truyền, buổi đầu Tây mới qua, dân cư thưa thớt, tản mác, thực dân Pháp phát mãi ruộng đất vô thừa nhận với giá rẻ mạt mà vẫn không có người mua, thế rồi họ ép ông Sĩ mua. Bất đắc dĩ, ông phải chạy bạc khắp nơi để mua. Không ngờ mấy năm liên tiếp được mùa, ông trở nên giàu có. Trong nhà ông có treo câu đối dạy đời: “Cần giữ kiệm, trị gia thượng sách. Nhẫn nhi hoà, xử thế lương đồ.”

Thời đó có câu “nhất Sĩ, nhì Phương, tam Xường, tứ Định”, vậy là ông đứng thứ nhất trong bốn người giàu nhất Sài Gòn và Nam kỳ. Thứ nhì là Đỗ Hữu Phương, làm tổng đốc, gọi là Tổng đốc Phương. Thứ ba là Lý tường Quan, người Minh Xương, tục danh là Hộ Xường, thứ tư là ông Hộ trưởng tên là Định, gọi là Hộ Định.

 

 

Ông huyện Sĩ mất năm 1900 trước khi Nhà thờ xây xong. Sau khi vợ ông là bà Huỳnh Thị Tài mất năm 1920, người ta mới đưa xác hai ông bà chôn ở gian chái sau cung Thánh như một nhà mồ.

Theo di chúc, phần tiền xây dựng Nhà thờ trích từ 1/7 gia tài của ông, nên khi ông chết, việc thi công xây dựng vẫn được tiến hành một cách suôn sẻ. Nhà thờ rộng 18 mét, dài mới đầu dự tính là 5 gian, tức khoảng 50m. Lúc đó ở khu Chí Hoà, Nhà thờ tạm bị hư hại trầm trọng, không có nơi cho bổn đạo thờ phụng, nên các giới chức trong đạo đã xin cắt bớt 1 gian ở Nhà thờ Huyện Sĩ, lấy số tiền đó xây Nhà thờ Chí Hoà (đến nay Nhà thờ Chí Hoà vẫn còn, được tôn tạo nhiều lần, nên rất khang trang).

 

 

Tại gian chái bên trái là tượng bán thân ông Huyện Sỹ bằng thạch cao gắn cột đầu, phía sau là phần mộ bằng đá cẩm thạch được trang trí hoa văn. Trên mộ là tượng toàn thân ông Huyện Sỹ kê đầu trên hai chiếc gối bằng đá cẩm thạch được điêu khắc tinh xảo, đầu chít khăn đóng quay về Cung Thánh Nhà Thờ, mình mặc áo dài gấm hoa văn tinh xảo, hai tay đan vào nhau trước ngực, chân đi giày. Đối diện bên phải là tượng và một vợ ông là bà Huỳnh Thị Tài (1845-1920), với tóc búi, cũng dựa trên hai chiếc gối, hai tay nắm trước ngực, mặc áo dài gấm, chân mang hài. Phía trong cùng còn có tượng bán thân của con trai và con dâu ông bà là Gioan Baotixita Lê Phát Thanh (bên phải) và Anna Đỗ Thị Thao (bên trái).

 

Bài: Sưu tầm & biên tập

BÀI ĐĂNG
TAGS
Nhà thờ Huyện Sỹ
Số 1 đường Tôn Thất Tùng, phường Phạm Ngũ Lão, Q.1, TP. Hồ Chí Minh

Nhà thờ Huyện Sỹ là một Nhà thờ Công giáo cổ hơn 100 tuổi, tọa lạc tại số 1 đường Tôn Thất Tùng, Q.1, Thành phố Hồ Chí Minh.

 

 

Nhà thờ do ông bà Lê Phát Ðạt, tức Huyện Sỹ, hiến đất và 1/7 gia tài để xây dựng, thời giá lúc bấy giờ là khoảng trên 30 muôn (ngàn) bạc. Khởi công xây dựng năm 1902 theo thiết kế của Linh mục Bouttier, đến 1905 thì được khánh thành, Nhà thờ tọa lạc trên một khu đất cao và rộng hơn một mẫu, nằm ở góc đường Frère Louis (nay là đường Nguyễn Trãi) và Frère Guilleraut (nay là đường Tôn Thất Tùng).

 

 

Ban đầu nhà thờ có tên là Nhà thờ Chợ Đũi do thuộc họ đạo Chợ Đũi, do nhận bảo trợ của thánh Philipphê tông đồ, thánh bổn mạng của Huyện Sỹ nên còn được gọi là Nhà thờ thánh Philipphê. Tuy vậy, dân gian vẫn gọi là Nhà thờ Huyện Sỹ, và sau đó dần trở thành tên chính thức của Nhà thờ này.

Nhà thờ Huyện Sĩ được đánh giá là có khuôn viên rộng rãi khoáng đãng nhất ở Sài Gòn. Phía trước Nhà thờ có tượng đài thánh tử đạo Việt Nam là Matthêu Lê Văn Gẫm. Gần cổng chính còn có đài Thiên Thần bổn mạng và tượng đài thánh Giuse.

 

 

Bên trái khuôn viên là núi Đức Mẹ Lộ Đức được xây dựng năm 1960 để kính Đức Mẹ Lộ Đức. Hằng năm cứ vào ngày 11 tháng 2 dương lịch, các cha sở họ Chợ Đũi có thói quen dâng Thánh lễ tại núi này cầu nguyện đặc biệt cho các bệnh nhân.

Phía bên phải khuôn viên Nhà thờ là đồi Canvê, có tượng chuộc tội rất lớn được xây dựng năm 1974 dưới thời linh mục Gioan Baotixita (Iohannes Baptista) Dương Hoàng Thanh.

Nhà thờ có chiều dài 40m, chia làm 4 gian rộng 18m. Nhà thờ dùng đá granite Biên Hòa để ốp mặt tiền và các cột chính điện, theo phong cách kiến trúc Gothic mới.

 

 

Chính điện Nhà thờ có vòm chịu lực dạng cung nhọn. Tường có nhiều cửa sổ dạng vòm đỉnh nhọn và được trang trí bằng lớp kính màu ghép hình mua từ Ý. Bên trong các gian tường có nhiều tượng Thánh. Trên vòm cửa chính có tượng Thánh Philipphê bổn mạng Nhà thờ bằng đá cẩm thạch, đứng cầm cây Thánh giá Phục sinh.

Ngọn tháp chuông chính diện cao 57m kể cả chiều cao Thánh giá và con gà trống Gaulois. Bên trong ngọn tháp có 4 quả chuông được đặt đúc tại Pháp năm 1905. Hai quả lớn có đường kính 1m05 do con trai và con dâu Huyện Sỹ là ông Gioan Baotixita Lê Phát Thanh và bà Anna Đỗ Thị Thao tặng. Hai quả chuông nhỏ đường kính 0m95 không ghi người tặng, có lẽ là của ông bà Huyện Sỹ đặt đúc cùng năm.

Theo học giả Vương Hồng Sển, ông Huyện Sĩ, cũng có tên gọi là Lê Phát Đạt (1841-1900), người Cầu Kho, theo đạo Công giáo, tên thánh là Philipphê, thuở nhỏ tên là Sĩ, khi học La Tinh ở Cù lao Penăng gặp thày dạy trùng tên nên đặt tên là Đạt. Thời đó rất hiếm người biết chữ nghĩa (chữ quốc ngữ, chữ Hán) và nhất là tiếng La Tinh và tiếng Pháp, nên hầu hết những người được đào tạo từ trường dòng ra, đều được trọng dụng, trong đó có ông ông Lê Phát Đạt được cử làm thông phán. Ông phục vụ ở tỉnh Tân An nhiều năm.

 

 

Tương truyền, buổi đầu Tây mới qua, dân cư thưa thớt, tản mác, thực dân Pháp phát mãi ruộng đất vô thừa nhận với giá rẻ mạt mà vẫn không có người mua, thế rồi họ ép ông Sĩ mua. Bất đắc dĩ, ông phải chạy bạc khắp nơi để mua. Không ngờ mấy năm liên tiếp được mùa, ông trở nên giàu có. Trong nhà ông có treo câu đối dạy đời: “Cần giữ kiệm, trị gia thượng sách. Nhẫn nhi hoà, xử thế lương đồ.”

Thời đó có câu “nhất Sĩ, nhì Phương, tam Xường, tứ Định”, vậy là ông đứng thứ nhất trong bốn người giàu nhất Sài Gòn và Nam kỳ. Thứ nhì là Đỗ Hữu Phương, làm tổng đốc, gọi là Tổng đốc Phương. Thứ ba là Lý tường Quan, người Minh Xương, tục danh là Hộ Xường, thứ tư là ông Hộ trưởng tên là Định, gọi là Hộ Định.

 

 

Ông huyện Sĩ mất năm 1900 trước khi Nhà thờ xây xong. Sau khi vợ ông là bà Huỳnh Thị Tài mất năm 1920, người ta mới đưa xác hai ông bà chôn ở gian chái sau cung Thánh như một nhà mồ.

Theo di chúc, phần tiền xây dựng Nhà thờ trích từ 1/7 gia tài của ông, nên khi ông chết, việc thi công xây dựng vẫn được tiến hành một cách suôn sẻ. Nhà thờ rộng 18 mét, dài mới đầu dự tính là 5 gian, tức khoảng 50m. Lúc đó ở khu Chí Hoà, Nhà thờ tạm bị hư hại trầm trọng, không có nơi cho bổn đạo thờ phụng, nên các giới chức trong đạo đã xin cắt bớt 1 gian ở Nhà thờ Huyện Sĩ, lấy số tiền đó xây Nhà thờ Chí Hoà (đến nay Nhà thờ Chí Hoà vẫn còn, được tôn tạo nhiều lần, nên rất khang trang).

 

 

Tại gian chái bên trái là tượng bán thân ông Huyện Sỹ bằng thạch cao gắn cột đầu, phía sau là phần mộ bằng đá cẩm thạch được trang trí hoa văn. Trên mộ là tượng toàn thân ông Huyện Sỹ kê đầu trên hai chiếc gối bằng đá cẩm thạch được điêu khắc tinh xảo, đầu chít khăn đóng quay về Cung Thánh Nhà Thờ, mình mặc áo dài gấm hoa văn tinh xảo, hai tay đan vào nhau trước ngực, chân đi giày. Đối diện bên phải là tượng và một vợ ông là bà Huỳnh Thị Tài (1845-1920), với tóc búi, cũng dựa trên hai chiếc gối, hai tay nắm trước ngực, mặc áo dài gấm, chân mang hài. Phía trong cùng còn có tượng bán thân của con trai và con dâu ông bà là Gioan Baotixita Lê Phát Thanh (bên phải) và Anna Đỗ Thị Thao (bên trái).

 

Bài: Sưu tầm & biên tập